1. Tuyển điều hành (MOD) cho Diễn đàn hoa nhanh chân đăng ký nha các bạn

    ♥ Ra mắt Bộ sưu tập ảnh hoa chất lượng cao do các thành viên VF đóng góp

    Viết bài cho Từ điển các loài hoa nhận nhuận bút liền tay

    ♫ Khai trương Bách hóa di động mọi người ghé ủng hộ cái nào :)

NGỌC LAN, Magnoliaceae (tt)

Thảo luận trong 'N' bắt đầu bởi BOCONGANH, 31/1/13.

  1. BOCONGANH Some See A Weed, Some See A Wish
    BOCONGANH

    BOCONGANH Some See A Weed, Some See A Wish

    Tham gia ngày:
    21/1/13
    Bài viết:
    346
    Đã được thích:
    65
    Điểm thành tích:
    28
    Giới tính:
    Nam
    Nghề nghiệp:
    ARCH
    Nơi ở:
    TP.HCM
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]


    Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (Indomalaya), bao gồm cả miền nam Trung Quốc.
    Phân loại khoa học
    Giơi: Plantae
    (Không xếp hạng): Angiosperms Thực vật hạt kín
    (Không xếp hạng): Magnoliids Magnoliids
    Bộ: Magnoliales Magnoliales
    Họ: Magnoliaceae Magnoliaceae
    Juss.
    Chi: Subfamily Magnolioideae
    Phân họ Magnolioideae
    * Tông Magnolieae
    + Kmeria (5 loài)
    + Magnolia (128 loài)
    + Manglietia (29 loài)
    + Pachylarnax (2 loài)
    *Tông Michelieae
    + Elmerrillia (4 loài)
    + Michelia (49 loài)
    Phân họ Liriodendroidae
    Liriodendron (2 loài)


    Xuất xứ
    Hoa màu vàng nhạt của Hoàng ngọc lan (Michelia champaca).
    Bạch ngọc lan ,Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa thực thụ. Các bộ phận lớn không chuyên biệt của hoa, tương tự như cánh hoa, được gọi trong tiếng Anh là tepal (không có thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt).
    Lá, hoa và hình dáng của chi Michelia là tương tự như chi Magnolia (mộc lan), nhưng hoa của chi Michelia nói chung mọc thành cụm giữa các nách lá, hơn là mọc đơn ở đầu cành như của chi Magnolia.
    Một vài loài cây thân gỗ lớn là các nguồn cung cấp gỗ có giá trị quan trọng mang tính địa phương. Một số loài, bao gồm hoàng ngọc lan (M. champaca) và M. doltsopa được trồng để lấy hoa, cả để làm cây cảnh cũng như lấy hoa thuần túy. Hoa hoàng ngọc lan cũng được sử dụng để sản xuất tinh dầu trong công nghiệp sản xuất nước hoa. Một số loài đã được đưa vào các khu vực ngoài Indomalaya để trồng trong vườn hoặc trên đường, bao gồm M. figo, M. doltsopa và M. champaca. Tên khoa học của chi này được đặt theo tên của một nhà thực vật học người Firenze, Italy là Pietro Antonio Micheli (1679-1737).
    Giống - Loài
    Các Magnoliaceae, hoặc Họ Magnolia, là một thực vật có hoa trong gia đình để Magnoliales . Nó bao gồm hai phân họ:
    + Magnolioideae, trong đó Magnolia là chi nổi tiếng nhất.
    + Liriodendroidae, một phân họ đơn chi, trong đó Liriodendron (Tulip cây) là chi duy nhất.
    Không giống như hầu hết các thực vật hạt kín, có hoa bộ phận nằm trong vành đai, các họ Magnoliaceae có nhị hoa và nhụy hoa của mình thành hình xoắn ốc trên một ổ cắm hình nón. Sự sắp xếp này được tìm thấy trong một số nhà máy hóa thạch và được tin là một cơ sở điều kiện ban đầu hoặc cho thực vật hạt kín. Những bông hoa cũng có phần không phân biệt rõ ràng giữa lá đài và cánh hoa , trong khi thực vật hạt kín đã phát triển sau này có xu hướng có sự khác biệt rõ rệt lá đài và cánh hoa. Các Bộ phận chiếm cả hai vị trí đó được gọi là tepals .
    Họ Magnoliaceae có khoảng 225 loài trong 7 chi, mặc dù một số hệ thống phân loại bao gồm tất cả các Magnoioideae phân họ trong chi Magnolia. Họ Magnoliaceae có phạm vi phân bố trên khắp miền đông Bắc Mỹ , Mexico và Trung Mỹ , Tây Ấn , vùng nhiệt đới Nam Mỹ , miền nam và miền đông Ấn Độ , Sri Lanka , Đông Dương , Malesia , Trung Quốc , Nhật Bản , và Hàn Quốc .
    Do tuổi lớn của nó, sự phân bố địa lý của họ Magnoliaceae đã trở thành bậc hở hoặc bị phân mảnh như là kết quả của các sự kiện địa chất lớn như thời kỳ băng hà , trôi dạt lục địa , và hình thành núi . Mô hình phân phối đã bị cô lập một số loài trong khi vẫn giữ những người khác tiếp xúc gần gũi. Các loài còn sinh tồn của họ Magnoliaceae phân bố rộng khắp trong và nhiệt đới châu Á ôn đới từ Himalaya tới Nhật Bản và phía tây nam qua Malaysia và New Guinea. Châu Á là nơi có khoảng hai phần ba số loài trong họ Magnoliaceae, với phần còn lại của sự lây lan trong gia đình qua Mỹ với các loài ôn đới mở rộng vào phía nam Canada và các yếu tố nhiệt đới mở rộng sang Brazil và Tây Ấn.
    Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa thực thụ. Các bộ phận lớn không chuyên biệt của hoa, tương tự như cánh hoa, được gọi trong tiếng Anh là tepal (không có thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt).
    Các loài
    Các tên gọi thông thường có thể là giổi hay ngọc lan hoặc hàm tiếu.
    M. aenea Dandy (được coi là đồng nghĩa của M. foveolata Merr. ex Dandy theo J. Li (1997)[4])
    M. alba DC. (đồng nghĩa: M. longifolia Blume), loại lai ghép giữa M. champaca L. và M. montana Blume: Bạch ngọc lan, sứ ngọc lan, đại mộc, dầu gió, mộc hoa, ngọc đường xuân, vọng xuân, nghênh xuân, mộc lan (tên gọi này dành cho chi Magnolia nhiều hơn). Bạch ngọc lan có mùi hương rất thơm, ở Việt Nam được dùng làm hoa cúng (để trong đĩa cùng một số loại hoa nhỏ khác) chứ không bày chơi làm cảnh. Đàn bà người Việt có khi dùng hoa cài trên tóc hoặc giắt trong túi để lấy hương thơm.
    M. angustioblonga Y.-W. Law & Y.-F. Wu
    M. balansae (A. DC.) Dandy (đồng nghĩa gốc: Magnolia balansae A. DC.): Giổi bà
    M. baillonii (Pierre) Finet & Gagnep. (đồng nghĩa: Aromadendron spongocarpum, Paramichelia baillonii, Magnolia baillonii)
    M. braianensis Gagnep.
    M. calcicola C.Y. Wu ex Y.-W. Law & Y.-F. Wu (được coi là đồng nghĩa cho M. ingrata Chen & Yang theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. caloptila Y.-W. Law & Y.-F. Wu (đơ vị phân loại đáng ngờ, theo như Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. cavaleriei Finet & Gagnep.
    M. champaca L.: Hoàng ngọc lan, ngọc lan ngà, sứ vàng, hoàng miễn quế, đại hoàng quế, hoàng lan (tên gọi hoàng lan được biết đến nhiều hơn cho Cananga odorata thuộc họ Na, nó cũng là tên gọi của một loài lan thực thụ là Cymbidium lowianum). Có nguồn gốc ở Ấn Độ, Java và Philipin. Là cây thân gỗ hay cây bụi cao và có tán từ 3 - 6 m. Các lá bóng loáng, màu lục sáng dài tới 16 cm. Tạo ra các hoa thơm màu vàng, da cam hoặc trắng kem về mùa xuân. Hoa của nó cũng được dùng để sản xuất tinh dầu cho nước hoa.
    M. chapaensis Dandy (M. constricta)
    M. compressa (Maxim.) Sarg. (đồng nghĩa: M. formosana, M. philippinensis, Magnolia compressa Maxim.)
    M. coriacea Chang & Chen
    M. crassipes Y.-W. Law
    M. doltsopa Buch.-Ham. ex DC. (đồng nghĩa: M. manipurensis). Cây thân gỗ và cây bụi lớn, cao tới 30 m. Có nguồn gốc ở miền đông Himalaya và các rừng cận nhiệt đới Meghalaya. Dao động về hình dáng từ cây bụi rậm rạp tới cây gỗ mọc thẳng và hẹp tán. Các lá lục sẫm dầy như da, dài từ 6 - 17 cm. Các cụm hoa trắng kem nở về mùa đông. Được trồng phổ biến trên các đường ven biển tại California.
    M. elegans Y.-W. Law & Y.-F. Wu (được coi là đồng nghĩa của M. cavaleriei Finet & Gagnep. theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. elliptilimba Chen & Noot. (được coi là đồng nghĩa của M. sphaerantha C.Y. Wu ex Z.S. Yue theo J. Li (1997))[4])
    M. faveolata Y.-W. Law & Y.-F. Wu: Giổi nhung
    M. floribunda Finet & Gagnep.
    M. foveolata Merr. ex Dandy
    M. fujianensis Q.F. Zheng
    M. fulgens Dandy (được coi là đồng nghĩa của M. foveolata Merr. ex Dandy theo Gagnepain (1939))[6]))
    M. fulva Chang & Chen
    M. fuscata (Andrews) Blume ex Wall. (đồng nghĩa gốc: Magnolia fuscata Andrews; được coi là đồng nghĩa cho M. figo (Lour.) Spreng. theo Baillon (1866)[7]): Hàm tiếu, giổi, hương tiêu, hoa tiêu. Cây bụi hay cân thân gỗ chậm lớn, cao tới 5 m và gần như thế về tán lá. Các lá nhỏ, bóng loáng màu lục mọc rậm rạp. Các cụm hoa lớn màu trắng, đôi khi có vệt màu tía. Hoa có mùi ngọt như của chuối. Port Wine Magnolia là một thứ của loài này có hoa màu hồng hay màu hạt dẻ.
    M. guangxiensis Y.-W. Law & R.-Z. Zhou
    M. hedyosperma Y.-W. Law (được coi là đồng nghĩa của M. hypolampra Dandy theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. hypolampra Dandy
    M. ingrata Chen & Yang
    M. iteophylla C.Y. Wu ex Y.-W. Law & Y.-F. Wu (đồng nghĩa cho Michelia formosana (Kaneh.) Masam. & Suzuki do cùng kiểu; M. formosana lại là đòng nghĩa của M. compressa (Maxim.) Sarg. theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    [[* M. kisopa Buch.-Ham. ex DC.: Có nguồn gốc từ các rừng cận nhiệt đới Meghalaya
    M. koordersiana Noot.
    M. lacei W. W. Sm. (đồng nghĩa: M. tignifera)
    M. laevifolia Y.-W. Law & Y.-F. Wu (được coi là đồng nghĩa của M. yunnanensis Franch. ex Finet & Gapnep. theo Xia & Deng (2002)[8])
    M. lanuginosa Wall. (đồng nghĩa: M. velutina): Có nguồn gốc từ các rừng cận nhiệt đới Meghalaya
    M. leveillana Dandy
    M. longipetiolata C.Y. Wu ex Y.-W. Law & Y.-F. Wu (được coi là đồng nghĩa của M. leveilleana Dandy theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. longistamina Y.-W. Law (được coi là đồng nghĩa của M. martinii (H. Lév.) Finet & Gagnep. ex H. Lév. theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. longistyla Y.-W. Law & Y.-F. Wu (được coi là đồng nghĩa của M. foveolata Merr. ex Dandy theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. macclurei Dandy
    M. martini (H. Lév.) Finet & Gagnep. ex H. Lév. (đồng nghĩa gốc: Magnolia martinii H. Lév.)
    M. masticata Dandy
    M. maudiae Dunn
    M. mediocris Dandy: Giổi xanh
    M. microtricha (được coi là đồng nghĩa của M. floribunda Finet & Gagnep. theo J. Li (1997)[4])
    M. montana Blume
    M. nilagiricaZenker.. Có nguồn gốc từ miền nam Ấn Độ.
    M. odora (W.Y. Chun) Noot. & Chen (đồng nghĩa gốc: Tsoongiodendron odorum W.Y. Chun)
    M. pachycarpa Y.-W. Law & R.-Z. Zhou
    M. platypetala Hand.-Mazz. (được coi là một thứ của Magnolia maudiae (Dunn) Figlar (= Michelia maudiae Dunn) theo Sima (2001)[9])
    M. polylneura C.Y. Wu ex Y.-W. Law & Y.-F. Wu
    M. punduana Hook.f. & Thomson. Có nguồn gốc từ các rừng cận nhiệt đới Meghalaya
    M. rajaniana Craib
    M. salicifolia A. Agostini
    M. scortechinii (King) Dandy (đồng nghĩa gốc: Manglietia scortechinii King)
    M. shiluensis W.Y. Chun & Y.-F. Wu
    M. skinneriana Dunn (được coi là đồng nghĩa của M. figo (Lour.) Spreng. theo Chen & Nooteboom (1993)[5])
    M. sphaerantha C.Y. Wu ex Z.S. Yue
    M. subulifera Dandy
    M. szechuanica Dandy (được coi là phân loài của Magnolia ernestii Figlar (= Michelia wilsonii Finet & Gagnep.) theo Sima & Figlar (2001)[9])
    M. tonkinensis: Giổi xanh, giổi bắc
    M. wilsonii Finet & Gagnep. (đồng nghĩa: M. sinensis Hemsl. & E.H. Wilson; dựa trên cùng một kiểu nhưng công bố sau vài tuần)
    M. xanthantha C.Y. Wu ex Y.-W. Law & Y.-F. Wu
    M. yunnanensis Franch. ex Finet & Gapnep.
    Đặc điểm
    Các đơn ngành của họ Magnoliaceae được hỗ trợ bởi một số nhân vật chia sẻ hình thái giữa các chi khác nhau trong gia đình. Hầu hết có hoa lưỡng tính được (với ngoại lệ của Kmeria và một số loài Gynopodium phần Magnolia), xuyên tâm, và với một thuôn dài thùng. Lá được thay thế, đơn giản, và đôi khi thùy. Các cụm hoa là một bông hoa đơn độc sặc sỡ, với cánh hoa và lá đài không thể phân biệt. . Lá đài từ sáu đến nhiều người, nhị hoa có nhiều tính năng ngắn và sợi filament có kém phân biệt từ bao phấn . lá noãn thường rất nhiều, khác biệt, và trên một kéo dài kích thước thùng . Các quả là một tổng hợp của các nang này thường trở nên chặt chẽ appressed khi chúng trưởng thành và mở dọc theo trục dọc theo bề mặt. Hạt có lông nhiều thịt và màu sắc mà các phạm vi từ màu đỏ sang màu da cam (trừ Liriodendron).Hoa Magnoliaceae bọ cánh cứng thụ phấn, trừ Liriodendron, đó là con ong thụ phấn. Các lá noãn hoa Magnolia là đặc biệt dày để tránh thiệt hại do bọ cánh cứng người, đất đai, thu thập dữ liệu, và bữa cơm trên chúng. Các hạt giống của loài chim Magnolioideae là phân tán, trong khi những hạt giống của Liriodendron là gió phân tán.
    Ứng dụng trong y học
    Theo y học cổ truyền, hoa ngọc lan có tính ôn, vị hơi cay, có công năng tiêu đờm, ích phế hòa khí. Có thể dùng pha trà để uống, với nhiều cách khác nhau, cho nhiều công dụng khác nhau như dưới đây:
    Giúp da thêm trắng
    Nguyên liệu gồm: hoa ngọc lan 10g, trà xanh 8g.
    Cách chế: Bóc từng cành hoa ngọc lan, rửa sạch hoa bằng nước muối, để ráo nước, cho vào trong chén. Rót nước đang sôi vào chén, sau đó cho trà xanh vào, đợi có mùi hương bay ra là có thể uống. Có tác dụng tăng cường chuyển hóa cơ bản, giúp da thêm trắng.
    Thanh nhiệt, giải khát
    Nguyên liệu gồm: hoa ngọc lan 20g, đậu xanh 150g, đường phèn 50g.
    Cách chế: Đậu xanh rửa sạch, cho cùng 4 chén nước, nấu đến sôi thì chuyển sang đun nhỏ lửa. Bóc từng cánh hoa ngọc lan rửa sạch, để ráo. Khi ninh đậu xanh được 30 phút, đậu nhừ, cho thêm đường phèn trộn đều, tắt lửa, rắc hoa ngọc lan vào. Tác dụng, thanh nhiệt tiêu thử, giải khát.
    Chữa ho
    Dùng hoa ngọc lan 20g, đem tẩm mật ong trong 3 ngày rồi sắc (nấu) uống như trà. Có tác dụng dưỡng phế nhuận yết hầu, điều lý trường vị, chữa trị ho do không khí không tốt, đầu váng, mắt hoa…
    Chữa đau bụng kinh
    Nguyên liệu: Dùng hoa ngọc lan 12g (hoa chưa nở hết) đem sắc uống thay trà, vào lúc sáng sớm; cứ 30 ngày là một liệu trình, có thể cải thiện đau bụng kinh ở nữ.
    Ngoài ra, hoa ngọc lan còn có những công dụng như: chống quá mẫn, chống viêm; tác dụng hạ huyết áp; tác dụng hưng phấn tử cung; chống ngưng máu, vón huyết tiểu cầu; kháng vi-rút…
     

Chia sẻ trang này